Chủ đề: Phân tích Haiku của Baso
Bài giảng: Thơ Haiku của Bà Nê – Cô Trương Khánh Linh (GV)
Haiku là một thể loại thơ truyền thống của Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết. Trong tiếng Nhật, 17 âm tiết đó được viết trên một dòng, khi phiên âm sang tiếng Latinh, chúng được chia thành ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Đặc biệt, có những bài hát có 19 âm tiết.
Masuo Baso (1644 – 1694), nhà thơ Haiku bậc thầy của Nhật Bản. Anh xuất thân từ một gia đình dòng dõi samurai Iga.
Haiku là một thể loại thơ truyền thống của Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết. Trong tiếng Nhật, 17 âm tiết đó được viết trong một dòng, khi phiên âm sang tiếng Latinh, chúng được chia thành ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Đặc biệt, có những bài hát có 19 âm tiết.
Ba dòng (đoạn) của bài thơ Hai Nhà có chức năng khác nhau: Dòng đầu dùng để giới thiệu; Dòng thứ hai tiếp tục ở trên và chuẩn bị cho dòng thứ ba; Dòng thứ ba: Đoạn thơ tứ tuyệt kết thúc thường không bao giờ rõ ràng mà phải mở ra những suy tư cảm xúc cho người đọc.
Trong mỗi bài thơ nhất thiết phải có chữ quý (từ chỉ mùa). Mỗi bài thơ là một khoảnh khắc của cảnh tượng và một cao trào của cảm xúc.
Thơ haiku luôn có nội dung liên quan đến thiên nhiên và đưa ra những triết lý về thiên nhiên
.
– Bài 1: cảm nhận về Edo (Edo chính là Tokio ngày nay). Mười mùa đã trôi qua, tức là mười năm dài nhà thơ sống ở Edo. Khi trở về quê hương tổ tiên, anh không thể quên Edo. Mười mùa sương khơi gợi lòng người xa xứ lạnh lùng. Nhưng khi trở về nhà, anh lại nhớ đến Edo. Tình yêu quê hương đã hòa làm một.
Bài 2: Kyoto là nơi Baso sống thời trẻ (1666-1672). Sau đó, anh chuyển đến Edo. Hai mươi năm sau, khi trở lại Kyoto và nghe tiếng đỗ quyên hót, ông đã viết bài thơ này. Bài thơ hoài cổ qua tiếng đỗ quyên, báo hè, giọng khắc khoải gợi lại những kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng xen lẫn buồn vui, mơ hồ về một thời đã xa. Thơ Baso gây ấn tượng lãng mạn. Để thơ bồng bềnh trong sự khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ nhung da diết.
– Bài 3: Hài cốt mẹ tóc bạc, nắm tay Basô nước mắt dài. Đau xót và thương xót khi mẹ không còn nữa. Hình ảnh “mùa thu xương” mơ hồ gợi lên nỗi buồn trống vắng của cảnh sinh ra, nuôi nấng. Tình mẫu tử khiến người đọc rơi nước mắt.
Bài 4: Người đọc bắt gặp nỗi buồn của con người. Cha mẹ sinh con không nuôi được, vì nghèo mà bỏ vào rừng sâu. Sự thật đi vào bài thơ gợi nhiều nỗi buồn tê tái. Tiếng vượn hú không ghê, nhưng “thót tim” trong ruột, không còn buồn mà là nỗi đau của thế gian. Tiếng trẻ “gào thét” khi bị bỏ rơi không phải vì cha mẹ độc ác mà vì không thể kìm nén được. Nỗi buồn ấy gửi theo gió mua rơi. Nỗi buồn ấy đã nâng giá trị thơ Basô lên đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo. Điều đáng nói là trong nỗi buồn ấy có nỗi đau của cuộc đời, còn đau hơn vì “đời không cứu được đời”.
Bài 5: Vẻ đẹp khát vọng trong tâm hồn nhà thơ. Khi trời mưa, một chú khỉ con thầm ước (ước) có một chiếc áo khoác để che mưa. Mượn mưa để nói về một thực tại nào đó trong cuộc sống (đói, rét chẳng hạn). Chú khỉ con ấy là một kiếp người, một kiếp người và một con người chung trong cuộc đời. Con khỉ hay nhân vật trữ tình khao khát được trốn đói, rét, khổ. Vẻ đẹp tâm hồn ấy lấp lánh giá trị nhân đạo thiết thực.
– Bài 6: Ta thấy cánh hoa đào “rải rác” và sóng nước hồ Bioa. Hoa đào rơi báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã kết thúc. Đây là mùa thay đổi.
Cái nhỏ bé nhất, bình dị nhất, tưởng như không có sự sống, nhưng nó vẫn mang trong mình mối quan hệ hài hòa và biến đổi của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng manh cũng làm dậy sóng hồ Bioa.
– Bài 7: Ta bắt gặp âm “cic” đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về sự chuyển mùa được hài hòa trong cái nhìn, sự đồng cảm và lắng nghe âm thanh. Cảm xúc của nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ thật đẹp: Hoa đào, hồ Bioa và tiếng ve không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào lòng đá, tượng trưng cho sự cứng cỏi. Bài thơ chan chứa tình cảm sâu nặng, trong tình yêu của con người với thiên nhiên, tạo vật.
– Bài 8: Basô bản tính thích du lịch (đi du lịch nhiều nơi trong nước). Con người đã đến lúc này (bài thơ này được tác giả sáng tác trước khi mất) khi đã gần đất xa trời. Không! Baso vẫn còn khát khao được sống để tiếp tục cuộc hành trình. Mong muốn sống không phải để tận hưởng mà để thực hiện sở thích của mình, đi du lịch khắp đất nước. Lạc quan làm sao! Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu cuộc sống mà còn thể hiện sứ mệnh của nhà thơ. Yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, Basô sẽ mãi làm thơ về cuộc đời này ngay cả khi giấc mơ đã lìa xa thế giới bên kia.
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập kế hoạch tác phẩm lớp 10:
Bài tập SGK lớp 10 mới:
tho-hai-cua-baso.jsp
Giải bài tập lớp 10 theo sách bộ môn mới
Danh Mục: Ngữ Văn
Web site: http://kiengiangtec.edu.vn/